1. Sâu răng trên trẻ em lứa tuổi mầm non (Early-childhood caries: ECC) là gì?
Là một/nhiều vị trí răng có lỗ sâu/chỉ mất khoáng, mất răng do sâu răng hoặc miếng trám trên bề mặt bất kỳ răng sữa nào ở trẻ em dưới 6 tuổi.
2. Vì sao bị ECC?
ECC hình thành và phát triển do 4 yếu tố chính tương tác đồng thời: răng nhạy cảm, mảng bám sinh vật, chất đường và thời gian (Keyes, 1969)
– Răng nhạy cảm: bề mặt răng phải xuất hiện trong miệng. Răng chen chúc, khiếm khuyết,…, răng mới mọc có men răng chưa trưởng thành có nguy cơ sâu răng hơn.
– Mảng bám sinh vật: nhiều vi khuẩn, nấm tham gia vào khởi phát và phát triển sâu răng:
Streptococcus mutans đóng vai trò chính trong hình thành mảng bám và khởi phát sâu răng cùng với một số vi khuẩn sinh pH axit khác khi có thêm điều kiện chất đường và thời gian.
Lactobacillus (L. fermentum, L. casei/paracasei và L. salivarius), được coi là vi khuẩn cơ hội gây tiến triển sâu răng khi có đủ điều kiện sau: có các hốc/khe rãnh (lúc bé mọc răng, có lỗ sâu, răng thiểu sản,..) cho phép tích tụ vi khuẩn, pH axit cùng môi trường kỵ khí và sẵn có lượng đường cao trong miệng.
– Chất đường: chủ yếu là đường dạng sucrose (fructose, glucose). Vi khuẩn chuyển hóa đường thành axit lactic gây ra pH axit dẫn đến sâu răng.
– Thời gian: ngoài số lượng đường thì độ đậm đặc, số lần sử dụng đều liên quan khả năng bị sâu răng. Thời gian duy trì pH axit gây sâu răng khoảng 30 phút nên việc cung cấp lượng đường liên tục (ăn vặt nhiều lần sau bữa ăn chính, ngậm núm giả có chất tạo ngọt,…) hoặc không có thao tác làm sạch đường trên bề mặt răng (bú đêm, không đánh răng,…) sẽ gia tăng ECC.
3. Vi khuẩn gây ECC lây cho bé bằng cách nào?
Có 2 cách lây truyền vi khuẩn gây ECC cho trẻ:
– Lây truyền dọc: lây truyền qua nước bọt từ mẹ hoặc người chăm sóc trực tiếp cho trẻ.
– Lây truyền ngang: thường là giữa các bé cùng lứa tuổi hoặc do yếu tố từ thời kỳ sơ sinh (sinh mổ có khả năng mắc S.mutans sớm hơn, thiếu dinh dưỡng thai kỳ,…)
Vi khuẩn gây ECC có thể phát hiện bất kỳ độ tuổi nào của trẻ.
4. Nước bọt ảnh hưởng ECC không?
Nước bọt chứa các ion và tạo màng bọc giúp răng chống lại sự khử khoáng. Ngoài ra, nước bọt có tác dụng đệm, tạo pH trung tính, chứa một số protein kháng khuẩn: immunoglobulin, histamin,… và rửa trôi thức ăn thừa trên bề mặt răng giúp giảm nguy cơ sâu răng.
Tuy nhiên, tuyến nước bọt của trẻ phát triển hoàn thiện vào tháng thứ 4 -6 sau khi sinh. Giai đoạn tháng thứ 4 đến tháng thứ 12, nước bọt chứa chủ yếu là nước, tỷ lệ protein kháng khuẩn thấp, đồng thời nước bọt tiết nhiều do sự kích thích mọc răng nhưng phản xạ nuốt của bé chưa hoàn thiện. Một số thành phần trong nước bọt gia tăng dần cho đến sau 2 tuổi, nước bọt mới đạt hiệu quả hơn trong việc tiêu hóa và bảo vệ răng miệng.
Mặc khác, trong thời gian ngủ, lượng nước bọt sẽ giảm nên sẽ tăng nguy cơ ECC cho trẻ có thói quen bú sữa đêm mà không có bất kỳ hành động nào làm sạch răng cho bé. Theo khuyến cáo, trẻ nên giảm số lần và bỏ thói quen bú đêm kể từ khi mọc chiếc răng sữa đầu tiên (tháng 4 – 6 sau khi sinh).
5. Dùng men vi sinh hỗ trợ tiêu hóa có khiến bé bị ECC không?
Chỉ có vài chủng của Lactobacillus, không phải tất cả, tham gia vào quá trình gây sâu răng khi chúng đạt được một số lượng nhất định và phải đủ ba yếu tố: có hốc/khe rãnh và kỵ khí để tích tụ, pH axit và môi trường có lượng đường cao. Các chủng này thường xuất hiện ở khoang miệng, ít khi gặp ở đường ruột. Hơn nữa, Lactobacillus chủ yếu là phát triển tình trạng sâu răng hơn là khởi phát sự sâu răng.
Việc dùng men vi sinh (có các lợi khuẩn thuộc chi Lactobacillus là thành phần vi khuẩn bình thường của ống tiêu hóa) hỗ trợ tốt tiêu hóa đường ruột cho trẻ, chưa có bằng chứng khoa học liên quan đến ECC.
Có một số nghiên cứu dùng phương pháp cân bằng hệ vi sinh miệng vì có bằng chứng rõ về một số chủng Lactobacillus ức chế số lượng vi khuẩn gây sâu răng như S.mutans, từ đó giảm tỷ lệ sâu răng cho trẻ. Tuy nhiên còn cần nhiều nghiên cứu về phương pháp này để có thêm bằng chứng rõ về tác dụng, tác dụng phụ khi dùng trong khoang miệng.
Việc dùng men vi sinh đường ruột phải tuân thủ theo chỉ định của bác sĩ về liều sử dụng và thời gian điều trị để đạt hiệu quả tốt cho sức khỏe của trẻ.
6. Sữa mẹ có làm bé bị ECC không?
Trong sữa mẹ có lactose (là disaccharide gồm monoglucose và galactose). Bình thường, lactose không được phân giải ở miệng. S.mutans cũng không phân giải lactose.
Tuy nhiên, sâu răng gây ra do sự tham gia của nhiều chủng vi khuẩn. Trong đó có vài chủng Lactobacillus có khả năng phân giải lactose, tạo pH axit gây sâu răng hoặc tiến triển sâu răng khi hội tụ đủ điều kiện tồn tại và phát triển trong miệng. Theo một số nghiên cứu, lượng lactose có trong sữa mẹ của trẻ bị ECC cao hơn so với trẻ không bị ECC.
Vì vậy, chỉ có thể nói sữa mẹ ít gây sâu răng hơn các thức ăn uống chứa surcose, không thể khẳng định sữa mẹ hoàn toàn không gây sâu răng.
Quan trọng là cần chú ý chất lượng sữa mẹ hơn. Nếu sữa mẹ thiếu protein, chất béo sẽ khiến trẻ bú không no, từ đó gia tăng số lần bú của trẻ hoặc trẻ có thói quen bú đêm mà không có bất kỳ biện pháp làm sạch răng nào sẽ gia tăng nguy cơ bị ECC của trẻ kể từ khi xuất hiện chiếc răng đầu tiên.
7. Lợi ích của sữa mẹ và bú mẹ trong việc bảo vệ sức khỏe răng miệng của bé?
Lợi ích của sữa mẹ và bú mẹ đối với sức khỏe răng miệng trẻ như sau:
– Các kháng thể immunglobulins (IgA, IgG), bạch cầu giúp giảm số lượng vi khuẩn gây hại trong miệng.
– Lactoferin liên kết sắt tự do dẫn đến giảm nguồn dinh dưỡng của một số vi khuẩn gây hại như S.mutans, giảm khả năng bám dính vi khuẩn lên mảng bám và bề mặt răng cũng như ức chế sự phát triển mảng bám nên giảm nguy cơ sâu răng.
– Men tiêu hóa và yếu tố Bidifus giúp cân bằng hệ vi khuẩn có lợi cho trẻ. Theo giả thuyết “cân bằng hệ vi sinh”, vi khuẩn gây sâu răng cũng cần một số lượng đủ nhiều để kết hợp với các yếu tố có sẵn dẫn đến hình thành mất khoáng men răng/lỗ sâu.
– Khoáng chất, trong đó có canxi giúp cho sự hấp thu khoáng cho xương, răng của trẻ trong thời kỳ đầu.
– Sữa mẹ chứa đường lactose nên ít nguy cơ gây sâu răng hơn so với các thức ăn uống chứa đường surcose.
– Động tác bú mẹ giúp hạn chế nguy cơ sai lệch khớp cắn như cắn sâu, mọc răng sữa chen chúc do thúc đẩy sự phát triển hàm và cơ mặt, cung răng và vòm miệng phát triển rộng.
8. Bú mẹ hay bú bình sẽ làm bé dễ bị ECC hơn?
Không có bằng chứng nghiên cứu khoa học đáng tin cậy cho thấy có sự chênh lệch tỷ lệ ECC giữa trẻ bú mẹ và trẻ bú bình. Nhưng với lợi ích của sữa mẹ trong bảo vệ sức khỏe răng miệng của trẻ đã được chứng minh, việc cho trẻ bú sữa mẹ luôn được khuyến khích.
Tỷ lệ bị ECC tăng thường do tần suất dùng lượng đường cao (ăn vặt nhiều sau bữa ăn chính; sữa mẹ không đủ protein, chất béo,… khiến trẻ đói và bú quá nhiều lần; dùng lượng nước ép trái cây cao hơn mức khuyến cáo theo tuổi;…) kết hợp với thời gian sử dụng (bú đêm; thời gian bú kéo dài; ngậm vú giả có chất tạo ngọt/bình sữa khi ngủ;…) mà không có bất kỳ biện pháp vệ sinh răng miệng phù hợp. Vì vậy, cần chú trọng kiểm soát các yếu tố này hơn vấn đề trẻ bú mẹ hay bú bình.
9. Thời gian cai sữa cho bé làm tăng nguy cơ bị ECC như thế nào?
Theo một số nghiên cứu, khi trẻ bú mẹ <6 tháng sẽ có nguy cơ bị ECC hơn so với trẻ bú mẹ > 6 tháng. Tuy nhiên, nếu trẻ bú mẹ kéo dài >24 tháng cũng tăng nguy cơ bị ECC hơn trẻ bú mẹ < 24 tháng. Vì vậy khuyến cáo nên cho bé bú mẹ liên tục 6 tháng đầu và cai sữa sau 24 tháng tuổi.
10. Làm thế nào để tránh cho bé bị ECC?
– Phụ nữ trước và trong thai kỳ:
+ Vệ sinh răng miệng hàng ngày đúng phương pháp.
+ Điều trị các bệnh lý về răng miệng: sâu răng, viêm nướu, viêm nha chu,…
+ Chế độ ăn đủ chất dinh dưỡng phù hợp với phụ nữ mang thai.
– Mẹ hoặc người chăm sóc trẻ sau sinh:
+ Vệ sinh răng miệng hàng ngày đúng phương pháp và điều trị bệnh răng miệng
+ Ăn uống cân bằng chất dinh dưỡng, giảm tiêu thụ thực phẩm dễ gây sâu răng.
+ Khuyến cáo cho con bú bằng sữa mẹ đến 24 tháng tuổi, ít nhất là 12 tháng tuổi. Những người lựa chọn cho con bú > 24 tháng tuổi, cần lưu ý kết hợp thêm vệ sinh răng miệng cho trẻ, nhận tư vấn từ nha sĩ.
+ Tránh việc hôn môi trẻ, mớm cơm, khăn mặt chung,… khiến trẻ dễ tiếp xúc với nước bọt của mẹ/người chăm sóc.
– Trẻ mới sinh đến trước khi mọc răng sữa đầu tiên (tháng thứ 4 -6):
+ Ưu tiên cho trẻ dùng sữa mẹ và bú mẹ theo nhu cầu (ngày hoặc/và đêm). Trường hợp cần thay sữa mẹ bằng sữa công thức, lưu ý không thử sữa trực tiếp từ miệng người chăm trẻ với núm/miệng bình sữa
+ Dùng gạc mềm ẩm (nước ấm) vệ sinh lưỡi, nướu răng cho trẻ hàng ngày, số lần vệ sinh tùy bé bú sữa mẹ có hay không kèm sữa công thức.
– Trẻ mọc răng sữa đầu tiên đến <3 tuổi:
+ Khuyến cáo giảm số lần đến ngưng hoàn toàn bú đêm (bú sữa bình hay bú mẹ tự do) ngay khi trẻ mọc răng đầu tiên. Chuyển số lần bú sữa/ăn dặm đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng cho trẻ sang ban ngày. Với trẻ chưa bỏ được thói quen này, tạm thời cho trẻ uống thêm ít nước lọc sau đó và cố gắng giúp trẻ ngừng bú đêm.
+ Tránh ngậm núm vú giả hay bình sữa khi trẻ đi ngủ. Núm vú giả có thể dùng cho trẻ < 1 tuổi và sau khi bú mẹ nhưng khuyến cáo nên bỏ trước 3 tuổi.
+ Tránh nhúng núm vú giả vào chất có hàm lượng đường cao như siro, mật ong,…
+ Với trẻ > 1 tuổi, nên bỏ bú bình và tập cho trẻ uống ly.
+ Duy trì chế độ dinh dưỡng phù hợp, đủ chất với độ tuổi của trẻ.
+ Thiết lập dần thói quen/chế độ ăn tốt cho sức khỏe răng miệng của trẻ như: số lần ăn, giờ ăn, loại thức ăn tốt cho răng miệng,… Tránh ăn thức ăn vặt có hàm lượng đường cao nhiều lần/liên tục giữa các bữa ăn chính. Khuyến khích ăn thức ăn vặt ít gây sâu răng: pho mai, trái cây, ngũ cốc nguyên hạt,…
+ Trẻ > 1 tuổi: lượng nước uống có đường: nước ép, sinh tố,… không vượt quá 120ml/ngày.
+ Tránh các thói quen xấu như ngậm thức ăn, ăn đồ ngọt ngoài các bữa ăn,…
+ Bổ sung các sản phẩm kem đánh răng cho trẻ phù hợp với độ tuổi 06 tháng – 3 tuổi.
+ Vệ sinh răng miệng cho trẻ bằng bao silicon vệ sinh răng, bàn chải; đánh răng sau ba bữa ăn chính (đặc biệt là tối trước khi đi ngủ). Với các bữa bú/uống sữa thêm hay ăn dặm, có thể cho bé uống hoặc súc miệng với ít nước lọc sạch tùy phản xạ nuốt nhổ của bé.
– Trẻ từ 3 tuổi đến <6 tuổi:
+ Khuyến cáo bỏ hoàn toàn việc ngậm núm vú giả.
+ Khuyến khích trẻ duy trì các thiết lập thói quen và chế độ ăn tốt cho răng miệng. Trẻ có thể uống nước uống có đường: nước ép trái cây, sinh tố,… <180ml/ngày.
+Vệ sinh răng miệng bằng bàn chải và kem đánh răng phù hợp với tuổi, đánh răng sau ba bữa ăn chính, đặc biệt là tối trước khi đi ngủ. Mẹ hoặc người chăm sóc bé có thể bắt đầu tập cho bé tự lập đánh răng và kiểm tra lại cho bé sau mỗi lần đánh.
+ Cho bé đi khám răng định kỳ 06 tháng/lần và điều trị các vấn đề bệnh lý răng miệng (nếu có).
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn An Nghĩa, “Hệ khuẩn ruột ở trẻ sơ sinh”,Hội nội tiết sinh sản và vô sinh Tp Hồ Chí Minh, www.https://hosrem.org.vn, 2015.
2. Phan Ái Hùng và cs.,2016, “Sâu răng ở trẻ nhỏ và hành vi chải răng với kem”, Thời sự Y học 11/2016, 66-69.
3. Trần Thúy Nga, Phan T.T. Yên, Phan Ái Hùng, Đặng T.N. Hòa,”Sâu răng ở trẻ em”, Nha khoa trẻ em, NXB Y Học 2001,156-178.
4. Abdulfatah Alazmah, “Early childhood caries: a review”, J Contemp Dent Pract 2017;18(8):732-737.
5. Abdullah S. Hemadi và cs., “Salivary proteins and microbiota as biomarkers for early childhood caries risk assessment”, International Journal of Oral Science 2017, 1-8.
6. A.L. Seminario và cs., “Early childhood careis”, ACTA MEDICA 2003;46(3):91–94.
7. A. Tandon và cs., “Beyond Decay: Exploring the Age-associated Variations in Streptococcus mutans and Lactobacillus in Dental Caries”, International Journal of Clinical Pediatric Dentistry 2024, 17(9):993-998.
8. C.A. Feldens và cs., “Feeding frequency in infancy and dental caries in childhood: a prospective cohort study”, International Dental Journal 2018; 68: 113–121.
9. Carol A. Palmer, N. Tinanoff, “Dietary Determinants of Dental Caries and Dietary Recommendations for Preschool Children”, J Public Health Dent., 2000, 60(3):197-206.
10. Degano MP, Degano RA., “Breastfeeding and oral health. A primer for the dental practitioner”, N Y State Dent J. 1993; 59(2): 30–2.
11. Di Fu và cs., “Unveiling the dual nature of Lactobacillus: from cariogenic threat to probiotic protector—a critical review with bibliometric analysis”, Front Oral Health 6, 2025.
12. F.S. Sugito và cs., “ Breastfeeding and early childhood caries (ECC) severity of children under 3 years old in DKI Jakarta”, Makara of Health 12, 2008, 86-91.
13. Hakan Colak, Coruh T Dulgergil và cs., “Early Childhood Caries update: A review of causes, diagnoses and treatments”, Journal of Natural Science Biology and Medicine 2013, 4(1):29-38.
14. H. Poureslami và cs., “Evaluation of Relationship between Sever Early Childhood Caries and Breast Milk`s Lactose among 12- to 24-month-old Children”, J Dent Shiraz Univ Med Sci., 2022, 23(2): 410-413.
15. Jing Zou, Quin Du và cs.,”Expert consensus on early childhood caries management”, International Journal of Oral science 2022,14-35.
16. M. Karimi, “The Effects of Breastfeeding on the Process of Tooth and Jaw’s Development”, Inter Per Den Open Acc Journal 2019, 3(3):236-237.
17. PW Caufield, CN Schon va cs., “Oral Lactobacilli and Dental caries”, Journal of Dental research 2015, 94(9Suppl): 110-118.
18. Ruta Grigalauskiene và cs., “Biological approach of dental caries management”, Baltic dental and maxillofacial Journal 2015,17-107.
19. S.K. Shrestha và cs., “Association of Breastfeeding and Early Childhood Caries: A Systematic Review and Meta-Analysis”, Nutrients 2024,16(9):1355.
20. W.M. Avila và cs., “Breast and Bottle Feeding as Risk Factors for Dental Caries: A Systematic Review and Meta-Analysis”, PLoS One. 2015, 10(11):e0142922.